Chăn nuôi Cừu Tsigai

Chăn nuôi cừu ở Hunggary

Chúng có tính bầy đàn cao nên dễ quản lý, chúng thường đi kiếm ăn theo đàn nên việc chăm sóc và quản lý rất thuận lợi. Chúng cũng là loài dễ nuôi, mau lớn, ít tốn công chăm sóc. So với chăn nuôi bò thì chúng là vật nuôi dễ tính hơn, thức ăn của chúng rất đa dạng, thức ăn của chúng là những loại không cạnh tranh với lương thực của người. Chúng là động vật có vú ăn rất nhiều cỏ. Hầu hết chúng gặm cỏ và ăn các loại cỏ khô khác, tránh các phần thực vật có gỗ nhiều. Chúng có chế độ hoạt động ban ngày, ăn từ sáng đến tối, thỉnh thoảng dừng lại để nghỉ ngơi và nhai lại. Đồng cỏ lý tưởng cho chúng như cỏ và cây họ Đậu. Khác với thức ăn gia súc, thức ăn chính của chúng trong mùa đông là cỏ khô.

Chúng là loài ăn tạp, có thể ăn được nhiều loại thức ăn bao gồm thức ăn thô xanh các loại như: rơm cỏ tươi, khô, rau, củ quả bầu bí các loại, phế phụ phẩm công nông nghiệp và các loại thức ăn tinh bổ sung như cám gạo ngũ cốc. Mỗi ngày chúng có thể ăn được một lượng thức ăn 15-20% thể trọng. Chúng cần một lượng thức ăn tính theo vật chất khô bằng 3,5% thể trọng. Với nhu cầu 65% vật chất khô từ thức ăn thô xanh (0,91 kg) và 35% vật chất khô từ thức ăn tinh (0,49 kg). Khi cho chúng ăn loại thức ăn thô xanh chứa 20% vật chất khô và thức ăn tinh chứa 90% vật chất khô.

Nguồn nước uống là nhu cầu cơ bản của chúng. Lượng nước cần cho chúng biến động theo mùa và loại và chất lượng thực phẩm mà chúng tiêu thụ. Khi chúng ăn nhiều trong các tháng đầu tiên và có mưa (kể cả sương, khi chúng ăn vào sáng sớm), chúng cần ít nước hơn. Khi chúng ăn nhiều cỏ khô thì chúng cần nhiều nước. Chúng cũng cần uống nước sạch, và có thể không uống nếu nước có tảo hoặc chất cặn. Trong một số khẩu phần ăn của chúng cũng bao gồm các khoáng chất, hoặc trộn với lượng ít.

Tỷ lệ nuôi sống không bị ảnh hưởng của kiểu gen hay giống cừu kết quả này mà chịu ảnh hưởng các yếu tố chính ảnh hưởng đến tỷ lệ nuôi sống bao gồm: tuổi cừu con, lứa đẻ, khối lượng sơ sinh, dinh dưỡng, kiểu sinh (đẻ đơn, đẻ đôi) của cừu mẹ và mùa đẻ. Bên cạnh đó chủ yếu chịu ảnh hưởng chăm sóc nuôi dưỡng, quản lý và các yếu tố điều kiện môi trường nơi nuôi giữ. Chính vì vậy để nâng cao tỷ lệ nuôi sống cần phải cải thiện khối lượng sơ sinh bằng việc cải thiện dinh dưỡng cho cừu mẹ trước khi đẻ, đặc biệt chú ý chăm sóc những cừu mẹ thể trạng gầy trong thời kỳ mang thai hoặc mang thai đôi.Tỷ lệ nuôi sống có liên quan trực tiếp đến khối lượng sơ sinh và có mối quan hệ đến khối lượng cai sữa, lứa đẻ, cũng như tuổi cừu mẹ. Vì vậy khi cừu mẹ trưởng thành thì khả năng dự trữ dinh dưỡng tốt hơn và có khả năng cung cấp sữa đủ để nuôi con hơn cừu đẻ lứa đầu.